quán từ là gì
Tính từ sở hữu (Possessive adjectives): một thành phần ngữ pháp trong câu, vị trí của tính từ sở hữu thường đứng trước phía danh từ và có chức năng là bổ nghĩa cho các danh từ phía sau nó. Do đây là một dạng tính từ thường gặp nên bạn cần học cách sử dụng thuần thục cấu trúc câu, ngữ cảnh, ngữ nghĩa trong câu.
Hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế là gì, ưu nhược điểm ra sao, khác biệt như thế nào so với hóa đơn điện tử. quận Bắc Từ Liêm, TP.Hà Nội. 024.3754.5222. Chi nhánh TP.HCM. 33A - Cửu Long- F.2 - quận Tân Bình,Thành phố Hồ Chí Minh. 028.3547.0355. Chi nhánh Bình Dương. B4
Quan hệ từ là những từ để biểu thị mối quan hệ, bộ phận nào đó trong câu hoặc đoạn văn. Đó có thể là mối quan hệ giữa câu với câu hoặc câu với câu trong đoạn văn. Một số quan hệ từ xuất hiện thường xuyên là và, với, hay, hoặc, nhưng, mà, thì, của, ở, tại, bằng, như, để, về,…
Có thể tìm một cụm từ tương đương trong tiếng Việt Nam để mô tả "Sugar Baby" đó là "bồ nhí". Mối quan hệ "cha nuôi - con nuôi" này tất cả là vì nhu cầu tình dục (thường là từ phía người lớn hơn) và tiền (từ phía người nhỏ hơn), Sugar Baby như một dạng
Lễ Động quan là gì, nghĩa của từ Đông quan trong tiếng việt lễ Động quan. Hiện naу, ở ᴄáᴄ ᴠùng quê người ta thường ᴄhỉ mua Quan tài ᴄòn ᴄông ᴠiệᴄ tẩn liệm ᴠà khiêng Quan tài thì do thanh niên trong làng (hoặᴄ hội làng) đảm nhận. Khi хong ᴠiệᴄ gia ᴄhủ
Ich Danke Dir Dass Ich Dich Kennenlernen Durfte. Bạn đang chọn từ điển Hán-Việt, hãy nhập từ khóa để tra. Định nghĩa - Khái niệm công quán từ Hán Việt nghĩa là gì? Dưới đây là giải thích ý nghĩa từ công quán trong từ Hán Việt và cách phát âm công quán từ Hán Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ công quán từ Hán Việt nghĩa là gì. 公馆 âm Bắc Kinh 公館 âm Hồng Kông/Quảng Đông. công quánNhà do triều đình lập ra thời của quan, chỗ ở của các sĩ kính xưng nhà ở của người khác. ☆Tương tự đệ trạch 第宅, tư để xá. ◇Tỉnh thế hằng ngôn 醒世恆言 Ngã gia bất thị công quán, sài hỏa bất tiện 我家不是公館, 柴火不便 Đại thụ pha nghĩa xử tống thân 大樹坡義處送親 Nhà ta không phải lữ xá, củi lửa bất tiện. Xem thêm từ Hán Việt cao phẩm từ Hán Việt nghĩa là gì? nhưng cựu từ Hán Việt nghĩa là gì? chứng minh từ Hán Việt nghĩa là gì? hãn ngưu sung đống từ Hán Việt nghĩa là gì? phân tử, phần tử từ Hán Việt nghĩa là gì? Hôm nay bạn đã học được thuật ngữ công quán nghĩa là gì trong từ Hán Việt? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới. Từ Hán Việt Là Gì? Chú ý Chỉ có từ Hán Việt chứ không có tiếng Hán Việt Từ Hán Việt 詞漢越/词汉越 là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách ghép các từ và/hoặc ngữ tố tiếng Việt gốc Hán lại với nhau. Từ Hán Việt là một bộ phận không nhỏ của tiếng Việt, có vai trò quan trọng và không thể tách rời hay xóa bỏ khỏi tiếng Việt. Do lịch sử và văn hóa lâu đời mà tiếng Việt sử dụng rất nhiều từ Hán Việt cổ. Đồng thời, khi vay mượn còn giúp cho từ vựng tiếng Việt trở nên phong phú hơn rất nhiều. Các nhà khoa học nghiên cứu đã chia từ, âm Hán Việt thành 3 loại như sau đó là từ Hán Việt cổ, từ Hán Việt và từ Hán Việt Việt hoá. Mặc dù có thời điểm hình thành khác nhau song từ Hán Việt cổ và từ Hán Việt Việt hoá đều hoà nhập rất sâu vào trong tiếng Việt, rất khó phát hiện ra chúng là từ Hán Việt, hầu hết người Việt coi từ Hán Việt cổ và từ Hán Việt Việt hóa là từ thuần Việt, không phải từ Hán Việt. Từ Hán Việt cổ và từ Hán Việt Việt hoá là những từ ngữ thường dùng hằng ngày, nằm trong lớp từ vựng cơ bản của tiếng Việt. Khi nói chuyện về những chủ đề không mang tính học thuật người Việt có thể nói với nhau mà chỉ cần dùng rất ít, thậm chí không cần dùng bất cứ từ Hán Việt một trong ba loại từ Hán Việt nào nhưng từ Hán Việt cổ và Hán Việt Việt hoá thì không thể thiếu được. Người Việt không xem từ Hán Việt cổ và Hán Việt Việt hoá là tiếng Hán mà cho chúng là tiếng Việt, vì vậy sau khi chữ Nôm ra đời nhiều từ Hán Việt cổ và Hán ngữ Việt hoá không được người Việt ghi bằng chữ Hán gốc mà ghi bằng chữ Nôm. Theo dõi để tìm hiểu thêm về Từ Điển Hán Việt được cập nhập mới nhất năm 2023.
quán từ là gì, cách sử dụng, vị trí của quán từ trong tiếng anh
Nếu bạn đang tìm kiếm đáp án cho câu hỏi Quán ngữ là gì, vậy thì bạn đã vào đúng nơi đúng lúc bởi vì bài viết này sẽ giúp bạn có được câu trả lời đúng và chuẩn xác nhất cho vấn đề mà bạn đang quan tâm. Chào mừng các bạn đến với blog Thành cá đù chấm com. Tôi có đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì blog hoạt động, bạn có thể làm ơn tắt chương trình chặn quảng cáo - Adblock sau đó tải lại trang giúp tôi nhé. Cảm ơn. Những ngày gần đây, nhiều bạn đang quan tâm đến Quán ngữ nghĩa là gì, tôi cũng có cùng mối quan tâm đó và tôi đã dành nhiều thời gian để tìm ra một số lời giải, mời các bạn cùng tham khảo nhé. Quán ngữ là gì Quán ngữ là lối nói do sử dụng lâu ngày mà quen dần và trở nên ổn định về hình thức và nghĩa. Khác với thành ngữ, trong quán ngữ, các từ vẫn còn giữ được tính độc lập tương đối của chúng, vì thế thường ta có thể suy ra nghĩa của quán ngữ bằng cách tìm hiểu ý nghĩa của các từ hợp ngữ là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ, thuộc nhiều phong cách khác nhau. Chức năng của quán ngữ là để đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh hoặc để liên kết trong diễn dụ về quán ngữ tiếng ViệtMột số ví dụ về quán ngữ trong tiếng Việt khoẻ như trâu, nói có bàn thờ, khôn nhà dại chợ, lừ đừ như từ vào đền, khoẻ như voi..Quán ngữ tình thái là gìQuán ngữ tình thái là những tổ hợp từ hay lời nói mang tính ổn định được tái hiện nhiều lần do nhu cầu cần thiết của sự giao tiếp. Theo Ngũ Thiện Hùng việc sử dụng các quán ngữ tình thái nhận thức không chỉ chịu sự chế định của các yếu tố lôgic- cú pháp. Các điều kiện như định hướng nội dung hay định hướng quan hệ động cơ vì người nói/ người nghe cũng phải được tính dụng ngữ là gìQuán dụng ngữ là những cụm từ ghép có cấu tạo xuất phát từ một từ vựng thuộc bộ phận cơ thể con người ghép với những từ vựng khác tạo thành một từ vựng mới có nghĩa sẽ được coi là Quán dụng ngữ. Chúng thường được sử dụng trong giao tiếp hàng điểm của quán dụng ngữQuán dụng ngữ có các đặc điểm sauQuán dụng ngữ là các từ được ghép từ các từ đơn, tạo ra các nghĩa khác nhau, nên khi dùng những từ đó cảm thấy rất rất thú thức câu luôn cố định như vậy, chỉ cần nhớ, và dùng câu luôn có bao hàm yếu tố văn hóa, nên chúng ta có thể hiểu hơn về con người Nhật Bản thông qua quán dụng là những câu từ mà đã trải qua một thời gian dài, trở thành thói quen của người nhiều từ bao gồm cả sự tích trong nghĩa truyền đạt thì dài, nhưng câu từ lại ngắn gọn, không phải là rất thú vị thể hiện những ý nghĩa đặc biệt, ví dụ như bài học cuộc sống trong nói dùng quán dụng ngữ rõ ràng sẽ có hiệu quả mạnh mẽ hơn hẳn so với văn nói thông đề rất đa dạng, học không nhàm quán ngữ sẽ gây ấn tượng sâu sắc với người nghe từ cố định là gìCụm từ cố định là một đơn vị ngôn ngữ do một số từ hợp lại, tồn tại với tư cách một đơn vị có sẵn như từ, có thành tố cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định như điểm của cụm từ cố địnhCụm từ cố định có các đặc điểm sauĐặc điểm tương đương với từ có tư cách của những đơn vị được làm sẵn trong ngôn ngữ; tương đương về chức năng định danh, và chức năng tham gia tạo xây dựng, tạo lập cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau không hoàn toàn như loại cụm từ cố định Thành ngữ, Quán ngữ, Ngữ cố định định danh, Những hiện tượng trung ngữ là gìThành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định và biểu thị được một ý nghĩa hoàn chỉnh. Nghĩa của nó có thể bắt nguồn trực tiếp từ nghĩa đen của các từ tạo nên nó nhưng thường thông qua một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, so sánh, thành ngữ cũng có dị điểm của thành ngữThành ngữ có các ặc điểm sauNgắn gọnThường có vần, nhất là vần lưngCác vế thường đối xứng nhau cả về hình thức, cả về nội dungLập luận chặt chẽ, giàu hình ảnhLà một cụm từ chưa thành câu hoàn chỉnhVí dụ thành ngữ Đứng núi này trông núi nọ / đứng núi này trông núi khácTục ngữ là gìTục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, thường có vần và nhịp điệu, hình ảnh. Nó thể hiện kinh nghiệm của cha ông ta đúc kết về mọi mặt tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội. Được nhân dân vận dụng vào đời sống, từ suy nghĩ, lời ăn tiếng dụ tục ngữ Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/ngày tháng mười chưa cười đã tối Tổng kết Bài viết này tôi đã giải thích các câu hỏi Ví dụ về quán ngữ tiếng Việt,Thành ngữ là gì,Tục ngữ là gì,Quán ngữ tình thái là gì,Quán dụng ngữ là gì,Cụm từ cố định là gì. Hi vọng bạn sẽ hài lòng với đáp án này. Bạn có thể đóng góp thêm bằng cách bình luận bên dưới. Trong cuộc sống không phải cái gì, nghĩa là gì bạn cũng biết; có người đã vẽ một hình tròn trên cát và khẳng định rằng "Những gì tôi biết chỉ là phần bên trong của hình tròn này". Blog Thành cá đù chấm com cũng chỉ là một trang blog nhỏ giữa hàng tỉ trang blog trên mạng thế giới. Tôi đã dành nhiều thời gian lục lọi, bỏ hàng giờ lang thang trên các địa chỉ web, đọc kỹ từng chủ đề, từng bài post.. đế có được những bài viết cung cấp nhiều kiến thức thú vị, bổ ích cho các bạn. Săn Sale Bạn có thể lựa cho mình một món hàng đang giảm giá theo địa chỉ tôi để bên dưới nhé, còn chờ gì nữa. Mua đồ dùng qua liên kết bên dưới là góp phần ủng hộ tôi có kinh phí tiếp tục duy trì blog này. Chân thành cảm ơn Disclaimer Bài viết được Thành cá đù tổng hợp từ nhiều nguồn nhằm mang lại cái nhìn tổng quan nhất, trong bài viết này tôi có đưa vào các quan điểm cá nhân. Nếu bạn có thắc mắc về vấn đề bản quyền hoặc nội dung, vui lòng để lại bình luân bên dưới bài viết này hoặc gửi mail cho chúng tôi. Thành cá đù chấm com chúc các bạn luôn vui vẻ, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống và kiếm được thật nhiều tiền.
Từ Bi là gì? Từ nghĩa là mang an vui cho tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ hết nỗi khổ cho muôn loài. Từ Bi là tình yêu thương vô điều kiện, rộng lớn không ngằn mé, là diệu pháp diệt trừ khổ đau, khiến cho vạn vật đều lìa khổ được vui. Đức Phật dạy “Từ năng dữ nhứt thiết chúng sinh chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sinh chi khổ”. Nghĩa là Từ cho vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ cái khổ cho tất cả mọi loài. Diệt khổ và cho vui đó là tất cả nguyện vọng và hành động lợi tha, cứu đời của người có lòng từ bi. Cái khổ và cái vui nói ở đây không chỉ là khổ và vui vật chất mà còn cả khổ và vui tinh thần. A La Hán là gì. Thập thiện nghiệp là gì. Cách cắt duyên âm tại nhà. Sự thật về hạn Tam tai. Sự thật về Cầu cơ. Chuyện tâm linh có thật. Cách trị khóc Dạ đề linh nghiệm nhất. 10 Điều quan trọng Phật tử tại gia cần biết. Từ Bi là gì Hết khổ và được vui là mong ước căn bản của muôn loài. Được một phần vui tức vơi một phần khổ, gọi là trong Từ có Bi. Trái lại, khi bớt khổ một phần nào, tức là đã được vui một phần ấy, như thế là trong Bi có Từ. Vậy Từ Bi là một lòng thương rộng lớn vô biên. Nó xui khiến người ta vận dụng tất cả khả năng và phương tiện để làm cho mọi người, mọi vật, thoát khổ được vui. Diệu dụng của Từ Bi Từ Bi là thuốc đặc trị dùng để đối trị tâm Sân giận. Trong các nguyên nhân gây ra đau khổ cho mình và cho người, tánh nóng giận là một nguyên nhân lớn. Từ vô thỉ đến nay sự xây dựng của loài người lớn lao vô kể, nhưng sự phá hoại vì lòng giận dữ của họ, cũng lớn lao vô cùng. Loài người xây rồi phá, phá rồi xây, chẳng khác gì những đứa trẻ xây lâu đài trên cát, xây xong đập đi, đập đi rồi xây lại…Nguyên nhân của sự phá hoại ấy chủ yếu là nóng giận. Sự nóng giận nho nhỏ trong nhà giữa vợ chồng làm đổ vỡ chén bát; Sự nóng giận giữa anh em làm u đầu sưng trán; Sự nóng giận giữa bạn bè làm đoạn tuyệt mối tâm giao; Sự nóng giận của ghen tuông dẫn đến thảm kịch nơi lưỡi dao, mũi súng hay lọ a xít…Còn sự nóng giận lớn giữa nước này với nước kia, màu da này với màu da nọ, chủ nghĩa này với chủ nghĩa kia…Khiến thây ma ngổn ngang trên bãi chiến trường; Khiến người tật nguyền trong các bệnh viện, khiến khăn tang trắng trên đầu các cô nhi quả phụ… Tất cả những tai họa trên đều do sân hận mà ra. Sân hận nằm sẵn trong lòng mỗi người, như những ngọn lửa âm ỉ cháy, như những thùng thuốc súng sẵn sàng bùng nổ bất luận lúc nào. Lửa gặp lửa, thuốc súng gặp thuốc súng…chúng sanh trôi lăn trong biển khổ vô biên. Hành tướng của sân giận kinh khủng như thế đó! * Ngoài đời là thế, còn với người học Phật thì sao? Chư Tổ dạy Trong các phiền não, duy có sân hận tướng trạng rất thô bạo, phá hoại hành giả mạnh mẽ nhứt. Nên người xưa đã bảo “Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai.” Câu này có nghĩa Khi khởi một niệm giận hờn, tức đã mở muôn ngàn cửa chướng ngại. Chẳng hạn như lúc đang niệm Phật, ta chợt tưởng đến người ngoài bạc ác khắc nghiệt xấu xa, đối đãi với mình nhiều điều không tốt; Hoặc nhớ việc người thân cận phản phúc gây rối làm khổ mình, liền buồn giận bức rức không an. Từ nơi tâm trạng đó, miệng tuy niệm Phật, nhưng lòng phiền muộn, vọng tưởng sôi nổi. Có người bỏ chuỗi thôi niệm, xuống nằm gác tay suy nghĩ vẫn vơ. Có kẻ lại buồn tức đến quên ăn bỏ ngủ, muốn gặp ngay người đó la hét một hồi, hoặc tìm cách trả thù cho đã giận. Tâm niệm sân hận nó phá hại người tu đến như thế. Muốn đối trị giận hờn, phải khởi lòng từ bi. Kinh Pháp Hoa nói “Lấy đại từ bi làm nhà, nhu hòa nhẫn nhục làm áo giáp, tất cả pháp Không làm tòa ngồi.” Phải nghĩ rằng Ta cùng chúng sanh đồng là phàm phu chìm trong biển khổ sanh tử, tất cả đều do nghiệp phiền não, mà phiền não vốn hư huyễn không có thật. Như một niệm sân hận, trước khi chưa khởi nó từ đâu đến, lúc tan rồi lại đi về đâu? Khi giận hờn ta tự làm khổ cho ta trước, vì đã nổi lửa phiền não thiêu đốt lấy mình, mà cũng không thể cải hóa làm lợi lạc chi cho người. Như thế có phải là si mê vô ích chăng? * Lại nên nghĩ người có hành động xấu làm tổn hại cho ta, kẻ đó vì mê muội đã gây nhân ác tất phải chịu quả khổ. Họ đáng thương hơn là đáng giận. Bởi nếu sáng suốt biết rõ lẽ tội phước, tất không khi nào lại dám làm điều ấy. Ta là Phật tử, phải áp dụng giáo lý đức Thế Tôn để tự cởi mở sự ràng buộc oan trái cho mình. Vì mục đích tu hành là cầu sự giải thoát an vui, chớ không phải tìm lối khổ. Đối với hành động tàn hại đó, ta phải xót thương tha thứ. Phải nhu hòa nhẫn chịu và xem mọi việc đều hư huyễn không không. Nên nhớ lời cổ nhơn “Lửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đức. Muốn hành Bồ Tát đạo, giữ thân tâm nhẫn nhục.” Từ bi là nước tịnh mát mẻ, rưới tắt lửa phiền não. Nhẫn nhục là áo giáp bền chắc ngăn tất cả mũi tên độc. Pháp không là ánh sáng phá tan khói mù tối tăm. Biết dùng ba điều này để dứt trừ sân hận, tức đã vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai vậy. Niệm Phật Thập Yếu Hiểu đúng về Từ Bi Nên nhận rõ Từ Bi khác với ái kiến. Ái kiến là lòng thương yêu mà chấp luyến trên hình thức, nên kết quả bị sợi giây tình ái buộc ràng. Từ bi là lòng xót thương cứu độ, mà lìa tướng, không phân biệt chấp trước; Tâm này thể hiện dưới đủ mọi mặt, nên kết quả được an vui giải thoát, phước huệ càng tăng. Từ là cho vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ mọi nỗi khổ cho tất cả mọi loài. Chúng ta đã biết Phật dùng hai chữ “chúng sinh” là để chỉ cho tất cả mọi sinh vật. Vậy Từ là cho vui tất cả mọi sinh vật, chứ không phải riêng cho loài người. Tất cả mọi vật có sự sống đều được chung hưởng tình thương ấy. Còn Bi là diệt trừ mọi nỗi khổ cho chúng sinh. Diệt khổ ở đây là nhổ tận gốc rễ của cái khổ chứ không phải chỉ thoa dịu cái quả khổ trong hiện tại. Người có lòng Bi là vừa thoa dịu vết thương đau khổ trong hiện tại và vừa chữa cho khỏi nguyên nhân hay gây ra đau khổ. Như người làm vườn, muốn nhổ hết cỏ ắt phải nhổ cho hết gốc rễ. Như thế thì Từ bi, về phương diện không gian, bao gồm tất cả mọi loài, còn về phương diện thời gian, bao gồm tất cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Ý nghĩa của Từ Bi Phật dạy không được sát sinh người mà cả muôn loài vật nữa. Người Phật tử chân chính triệt để tuân theo lời Phật dạy Không giết hại sinh vật để ăn và cũng không giết hại sinh vật trong các cuộc săn bắn hay câu cá để mua vui. Ngày xưa, các vị Tỳ kheo trước khi uống nước ao hồ, phải dùng một cái lọc để lọc nước. Như thế vừa hợp vệ sinh, vừa tránh khỏi sát sinh những sanh vật nhỏ ở trong nước. Mỗi khi vào cầu, những người tu hành phải gõ xuống đất ba tiếng, để cho những sinh vật dưới cầu biết mà tránh trước. Những cử chỉ ấy mặc dù nhỏ nhặt, những đã thể hiện được một cách chân thành lòng từ bi của người Phật tử chân chính. Chính nhờ lòng từ bi ấy mà cuộc đời bớt tàn khốc, người và vật không còn sát hại nhau. Nhưng nếu chỉ cho vui và diệt khổ trong hiện tiền mà không nghĩ đến cho vui và diệt khổ trong tương lai thì cũng chưa gọi là Từ bi. Bởi thế, cần phải gây nhân vui và diệt nhân khổ. Nhân vui và nhân khổ ở đâu mà có? Trong kinh thường dạy Khổ do nghiệp, nghiệp do hoặc. Hoặc tức là phiền não. Phiền não đều ở trong tâm mỗi chúng ta. Tâm nguồn gốc của mọi hành động, của mọi kết quả. Vậy thì quả khổ hay vui chỉ do tâm cả. * Tâm chúng sinh đầy rẫy phiền não tật xấu, dung chứa vô số hạt giống cay chua, đắng độc. Dĩ nhiên, những mầm mống ấy sẽ trổ ra những quả khổ gian lao. Bởi thế đạo Phật chú trọng tu tâm, dưỡng tánh cho chính mình và người. Muốn cứu khổ cho thật tình, chẳng những lo cứu khổ quả, mà còn phải trừ nhân khổ cho sớm. Thế mới đúng như định nghĩa đã nói ở trên về chữ Bi Bạt nhứt thiết chúng sinh chi khổ. Chẳng hạn, muốn một người nào khỏi bị cái khổ tù đày, lao lý, bắt bớ, hành hạ… Ta phải dạy họ đừng tham lam, trộm cướp; Hoặc dạy họ biết bố thí và quý trọng của cải của người. Muốn cho người nào khỏi khổ vì sự chia rẽ, sát hại, thù hằn…Ta phải dạy họ đừng sân mà cần phải biết nhu hòa, nhẫn nhục. Muốn cho người nào khỏi khổ vì sự ngu si, bị bóc lột, khinh hèn…Ta phải dạy cho họ được sáng suốt, giác ngộ cảnh đời. Khi họ hiểu rồi, tất tự biết làm lành lánh ác để được an vui. Muốn cho sự nghiệp lợi tha này được hoàn toàn, người tu hạnh Từ bi, còn có bổn phận phải chỉ bảo cho người chung quanh những phương pháp tu hành cho có hiệu quả. Như niệm Phật, tham thiền, trì chú… để cho tâm địa của họ được tăng trưởng công đức lành. Phương Pháp Quán Từ Bi Chúng ta đã thấy được giá trị tốt đẹp và lớn lao của từ bi. Vậy “làm thế nào để huân tập được lòng từ bi”? Một trong những phương pháp hiệu nghiệm để huấn tập được lòng từ bi là “quán từ bi”. Quán Từ bi có ba từng bậc thấp cao, tùy theo căn cơ của ba hạng tu hành Pháp Quán Từ Bi 1. Chúng sinh duyên từ Pháp quán này thường dành cho hạng tu Tiểu Thừa thực hành. Chúng sinh duyên từ, nghĩa là lòng từ bi do quán sát cảnh khổ của chúng sinh mà phát khởi. Chúng sinh tức là muốn nói đến những hạng còn đang say mê, chìm đắm trong bể khổ sanh tử, còn đang trói mình trong vòng phiền não nhiễm ô. Như loài Địa ngục bị hình phạt đủ điều. Loài Ngạ quỷ bị đói rách bứt bách. Loài súc sanh bị cảnh dao thớt hành hình, loài A Tu La đấu tranh, chém giết. ến như chúng sinh ở cõi Trời tuy vui thú, nhưng vẫn còn bị ngũ suy tướng hiện. Hết phước vẫn luân hồi, đọa lạc như thường. Hơn hết là loài người, cũng chịu không biết bao nhiêu là cảnh khổ Từ vật chất đến tinh thần, từ cá nhân đến đoàn thể. Nhất là đối luật vô thường Sanh, già, bịnh, chết, chưa một ai thoát khỏi được. Đứng trước những cảnh khổ của chúng sinh, người Phật tử phải làm như thế nào? Phải phát lòng từ bi! Nhưng làm sao cho lòng từ bi ấy được phát? ức Phật có dạy chúng ta phải quán sát tất cả chúng sinh trong lục đạo, mười phương đều như bà con thân thuộc. ây là phương pháp đầu tiên để hòa hợp với mọi chúng sinh. Dùng cảm tình mà tập quán Từ bi. * Trước kia, chúng ta có thói quen là cái gì ngoài “ta” thì ít khi quan tâm đến. Giờ đây, quán từ bi tức là chúng ta đã phá bỏ cái vỏ ích kỷ hẹp hòi ấy mà giác ngộ và nhận định rằng Thế giới của loài người chúng ta đang ở như một cái nhà lớn. Là nơi sum họp và đoàn kết của đại gia đình. Vẫn biết rằng nhân loại khác nhau về màu da, chủng tộc; Nhưng cái khác đó chẳng qua là khác về bề ngoài, chứ đã là người thì ai ai cũng có một thân hình xương thịt như nhau; Cũng đồng sợ khổ ưa vui, biết xấu biết tốt thế Đối với người lớn tuổi, ta phải kính trọng như ông bà cha mẹ. Người ngang hàng hay tuổi xấp xỉ, xem như anh chị em ruột thị. Người nhỏ tuổi hơn nữa xem như con cái cháu chắt… Rộng ra một tầng nữa, đối với chúng sinh trong lục đạo, chúng ta hãy xem như những thành phần của đại gia đình là chú, bác, cô, dì… * Vẫn biết rằng về hình thức, loài người khác với loài khác. Nhưng xét cho cùng, đã là chúng sinh, thì tất nhiên đồng chung một nguồn sống. Mà đã có sống thì tất nhiên đều ham sống sợ chết, đều biết cảm nỗi vui sướng và khổ đau. Gần với chúng ta nhất mà chúng ta có thể thấy, gặp và nhờ cậy được là loài súc sinh. Tuy chúng không biết nói như chúng ta, nhưng nếu chúng ta đối đãi tử tế, chúng cũng biết thương mến và trung thành với ta. Tuy không có học thức, chúng vẫn biết nghe lời ta và giúp đỡ ta trong nhiều công việc nặng nề. Chẳng qua vì nghiệp nặng, nên đời này chúng làm súc vật, nhưng biết đâu đời trước, chúng không phải là anh em của ta? Và sau này, biết đâu chúng lại không sẽ là bà con quyến thuộc của ta? Phương pháp tu tập của Tiểu Thừa này tuy chưa phá được ngã chấp, những cũng đã mở rộng được phạm vi hẹp hòi của cái “Ngã” nhỏ và thể nhập vào cái “Ngã” to hơn là đại gia đình; Rồi từ cái “Ngã” to ấy, sẽ chuyển dần sang giai đoạn lý trí cao siêu hơn, bằng phép quán “Pháp duyên từ” sau đây. Pháp Quán Từ Bi 2. Pháp duyên từ Pháp duyên từ là lòng từ bi do duyên “Pháp tánh” mà phát khởi. ây là pháp quán dành cho các bậc Trung thừa. Hành giả trong khi tu pháp môn này Quán sát thấy tất cả chúng sinh và mình đều đồng một “pháp giới tánh”. Vậy nên khi chúng sinh đau khổ là mình đau khổ. Vì vậy hành giả khởi lòng từ bi cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sinh. ến địa vị này, các Ngài không còn phân biệt là nam hay nữ. Không còn quan niệm mình khác với người. Không nghĩ rằng đó là bà con quyến thuộc…Chỉ thấy mình cùng người đồng một “pháp giới tánh” mà thôi. Bồ Tát đã nhận chúng sinh và mình đồng một bản thể, nên khi cứu khổ, không phân biệt đó là ai. Khi cứu khổ không thấy có mình cứu khổ. Chúng sinh có khổ thì Bồ Tát có Bi. Sự thông cảm tự nhiên ấy như tình thiêng liêng giữa mẹ và con, hễ có cảm là có ứng. Như tánh sốt sắng của vị y sĩ có lương tâm nhà nghề, hễ thấy bịnh thì liền trị. Với ý nghĩa này, trong kinh Trung A Hàm có thí dụ Trước một nạn nhân bị trúng tên độc. Ông không cần phải hỏi người ấy tên gì, ở đâu, con ai. Cũng không cần coi cây tên ấy làm bằng gì, ai bắn Sự cứu khổ cho chúng sinh, đối với các vị Bồ Tát đã chứng được “pháp duyên từ” này cũng như thế Chỉ nhằm mục đích làm sao cho kẻ khác hết khổ được vui mà thôi. Pháp Quán Từ Bi 3. Vô duyên từ Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ nên học qua hai hạng Từ Bi trên Lòng từ bi do duyên mình với chúng sinh khổ sở mà phát ra, hay do duyên mình và chúng sinh đồng một thể tánh mà phát khởi. Còn loại từ bi thứ ba tức là “Vô duyên từ” là một loại cao siêu đặc biệt của ại Thừa, chúng ta chưa đủ căn cơ, trình độ tu tập. Tuy nhiên, để có một ý niệm đầy đủ về lòng từ bi, chúng ta cũng nên biết qua về loại này. Vô duyên từ, là lòng từ bi không có tâm năng duyên và cảnh bị duyên. Không còn dụng công, không còn quan sát, đối đãi giữa mình với người. Lòng từ bi này xứng theo thể tánh chơn tâm mà tự khởi ra bao la. Trùm khắp hư không pháp giới, không thiên lệch một nơi nào. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu khắp cả gần xa. Không phân biệt thấp cao, không chú ý một nơi nào, chiếu soi tất cả một cách vô tư và không dụng công. Lợi Ích Của Pháp Quán Từ Bi Có người lo rằng nếu ai cũng Từ bi thì sẽ trở thành nhu nhược, dân tộc sẽ yếu hèn, và sự tham tàn bóc lột sẽ lừng lẫy Lo như thế là quá lo xa mà thành ra không thực tế. Từ xưa đến nay, loài người không phải khổ sở vì quá từ bi, xã hội không phải yếu hèn, đảo điên vì tình tương quá rộng lớn. Trái lại, sự đau khổ của cá nhân cũng như của đoàn thể, một phần rất lớn là do lòng người còn độc ác. Một xã hội càng văn minh thì lòng ác độc càng bớt, tình thương càng tăng thêm. Hãy khoan lo sợ Từ bi làm cho con người mềm yếu. Chỉ nên lo sợ sự thù hằn, độc ác, không giảm, thì loài người chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Khái lược theo kinh Tăng Nhất A Hàm thì quán Từ bi sẽ được những lợi ích như sau Khi thức hay ngủ đều được an vui. Hiện tại được nhiều người thương. Sống trong đời không bị tai nạn trộm cướp. Thực hành pháp quán từ bi không phải chỉ để cho chúng ta cầu những quả báo lợi ích riêng cho mình. Mục đích chúng ta tu là để mình và chúng sinh trong lục đạo đều khỏi khổ được vui. Như thế, trong khi tu chúng ta sẽ Trừ được lòng sân hận độc ác. Dẹp được ngã chấp hẹp hòi. oàn kết được với mọi người. ời sống cá nhân và đoàn thể nhờ thế được vui vẻ, có ý nghĩa. Quán Từ Bi Lời kết Từ bi là một phương thuốc trị tâm sân hận. Sân hận là đầu mối sát hại ghê ghớm, là cái chìa khóa của tất cả kho tội lỗi. Trừ được nó tức là trừ được chết chóc, và dập tắt được cái ngòi biến loạn. Nhân loại, không còn ai là cừu địch không còn có giai cấp bóc lột, đấu tranh. Ai cũng là người đáng thương, đáng giúp đỡ. Giữa người và người, giữa người và vật, sẽ có một sự liên lạc, đoàn kết mật thiết. Con người sẽ vô cùng sung sướng khi thấy xung quanh mình đều là bà con quyến thuộc, bốn biển đều là anh em và cùng chan hòa trong Phật tánh. Từ Bi là gì – Theo Phật Học Phổ Thông Tuệ Tâm 2021
quán từ là gì